Biển Đông là một lưu vực duy nhất bao gồm nhiều đảo và đất liền ở Đông và Đông Nam Á. Chúng khác nhau về kích thước và có lịch sử khác nhau. Đặc biệt quan trọng là quần đảo Hoàng Sa, các bức ảnh về quần đảo này sẽ được trình bày dưới đây. Hơn nữa trong bài báo, mô tả về các lãnh thổ này sẽ được đưa ra. Hãy cũng chúng tôi tìm hiểu xem quần đảo Hoàng Sa có gì nổi tiếng nhé.
Vị trí
Quần đảo Hoàng Sa là một khu vực không có người ở bao gồm các vùng đất nhỏ và đá ngầm. Chúng nằm cách miền nam Trung Quốc 230 km và cách miền đông Việt Nam 200 km. Các vùng lãnh thổ lớn nhất bao gồm quần đảo Hoàng Sa là khoảng. Patl, ồ Lincoln. Họ cũng bao gồm Fr. Triton và quần đảo Lưỡi liềm. Quần đảo Hoàng Sa, nơi các ngày lễ không phổ biến như ở các vùng lãnh thổ tương tự khác, có tầm quan trọng chiến lược rõ ràng.
Tranh chấp
Năm 1974, CHND Trung Hoa chiếm quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời, quyền đối với họ vẫn còn bị tranh chấp bởi Việt Nam và Trung Hoa Dân Quốc. Từ năm 1975, hai miền Nam Bắc Việt Nam thống nhất. nóxảy ra sau khi chiến tranh kết thúc. Vào thời điểm đó, miền Nam Việt Nam, bị bỏ lại mà không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, không thể tiếp tục các hoạt động quân sự. Sau khi thống nhất, Việt Nam mất quần đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Trường Sa. Vị trí
Những hòn đảo này là một quần đảo của Biển Đông, bao gồm hơn một trăm đảo nhỏ, đảo san hô, đá ngầm và nằm ở phía tây nam của nó. Tổng diện tích của quần đảo là khoảng 5 km².
Ý nghĩa cho các trạng thái
Sáu quốc gia đang tranh giành quyền sở hữu quần đảo cùng một lúc. Chúng bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Brunei và Đài Loan. Mặc dù có diện tích nhỏ nhưng quần đảo này có tầm quan trọng lớn đối với các bang này. Trên lãnh thổ có mỏ dầu và khí đốt với số lượng đáng kể. Do không có dân cư thường xuyên, chúng được sử dụng như một khu vực đánh bắt cá. Khoảng 50 hòn đảo do lực lượng quân sự của Việt Nam, Malaysia, Philippines, Trung Quốc và Đài Loan chiếm giữ. Mặc dù khu vực này không có cảng hoặc bến cảng, nhưng nó có bốn sân bay.
Niên đại
Năm 1529, quần đảo Trường Sa trở thành lãnh thổ của Tây Ban Nha (theo Hiệp ước Zaragoza). Năm 1898, chúng bắt đầu thuộc về Hoa Kỳ, sau đó là Philippines. Điều này được Hiệp ước Paris khẳng định. Năm 1927, một cuộc nghiên cứu về quần đảo đã được thực hiện bởi một tàu Pháp. Ba năm sau, cùng một bang đã tiến hành một cuộc thám hiểm thứ hai, kết quả là lá cờ trắng của nước Pháp đã được kéo lên. Hai năm sau anh ta được gửi đimột bản ghi nhớ về sự cai trị của Pháp từ CHND Trung Hoa, theo đó quần đảo Trường Sa nhận được chủ quyền dựa trên cách giải thích của Trung Quốc về hiệp ước. Nó được kết thúc vào cuối cuộc chiến tranh giữa Pháp và Trung Quốc. Năm 1933, một số hòn đảo lớn nhất đã được kiểm soát bởi ba con tàu. Đồng thời, khu vực này bắt đầu được coi là lãnh thổ của Pháp. Tuy nhiên, Nhật Bản đã chỉ ra sự hiện diện của các mỏ phốt phát của họ trong quần đảo, do đó đặt ra câu hỏi về chủ quyền này.
Dựa trên điều này, các nỗ lực đã được thực hiện để chiếm lãnh thổ dưới quyền tài phán của Nhật Bản, nhưng Pháp và Anh đã phản đối về điều này. Năm 1941, Nhật Bản chiếm đóng quần đảo, quyền kiểm soát đối với quần đảo này được duy trì cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai. Sau đó, Pháp và Trung Quốc lại đưa ra yêu sách đối với vùng lãnh thổ này, thậm chí Trung Quốc còn cử một đội quân tới đó. Năm 1982, việc sát nhập lãnh thổ của quần đảo vào tỉnh Fukhanh, và một số đoạn nữa đã bị Philippines chiếm được. Một năm sau, nhà nước Malaysia được xây dựng trên khoảng. Căn cứ hải quân Layang-Layang và mở một khu nghỉ dưỡng, trước đó đã chiếm đóng vùng lãnh thổ này. Năm 1988, một trận chiến đã xảy ra giữa quân đội Trung Quốc và Việt Nam, nhưng CHND Trung Hoa đã giành chiến thắng, và quyền kiểm soát của họ đối với khu vực này được giữ nguyên. Năm 1995, các cuộc đàm phán quy mô lớn giữa hai quốc gia này bắt đầu, chủ đề là sự phát triển chung của các nguồn tài nguyên trên quần đảo. Năm 2004, máy bay Philippines đã bị bắn trên vùng biển của quần đảo. Việt Nam xây dựng sân bay, từ đó mở rộng du lịchsự hiện diện. Và ngay năm sau đó, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa đã được tuyên bố.
Xung đột Trung-Việt
Quần đảo Hoàng Sa ở tỉnh Hải Nam không phải là vật cản duy nhất giữa Trung Quốc và Việt Nam. Có một cuộc xung đột liên quan đến biên giới đất liền. Năm 1979, sau khi quân đội Trung Quốc rút lui khỏi miền Bắc Việt Nam, CHND Trung Hoa đã có thể giành được chỗ đứng ở một số khu vực của đất nước. Trung Quốc không có trữ lượng hydrocacbon đáng kể nhưng lại có dân số hơn 1 tỷ người. Tất nhiên, ông rất buồn khi thấy một số nước nhỏ có được của cải từ sản xuất dầu như thế nào. Đến lượt mình, Việt Nam không muốn mời Trung Quốc tham gia vào quá trình phát triển tiền gửi của mình. Trên các phương tiện truyền thông của mình, ông đã đăng các bài báo yêu nước đề cập đến việc anh hùng bảo vệ quần đảo Trường Sa và cuộc sống hàng ngày của họ. Trung Quốc thực sự tính đến những vùng lãnh thổ này về vị trí đặt các căn cứ hải quân của họ trên đó.
Hiệp ước Hòa bình
Về mặt pháp lý của vấn đề, Việt Nam và Trung Quốc buộc phải tuân thủ Công ước của Liên hợp quốc, được thông qua vào năm 1982. Cũng nên tính đến Tuyên bố ASEAN được thông qua năm 2002, bản chất của Tuyên bố này là giải quyết hòa bình các xung đột ở Biển Đông. Ngoài ra, còn có các hành vi khác mang tính chất quốc tế. Có vẻ như chúng sẽ mang lại sự rõ ràng, nhưng lại càng làm tình hình rối ren hơn. Hiệp định Geneva được công nhận trên toàn thế giới,liên quan đến Việt Nam, được thông qua vào năm 1954. Theo kết quả của họ, hai nhà nước được hình thành: VNDCCH và Việt Nam Cộng hòa. Sau này thuộc quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Quy luật lịch sử
Trung Quốc khẳng định họ có thể sở hữu tất cả các đảo ở Biển Đông. Đồng thời, nhà nước nói đến năm 1958, khi Phạm Văn Đồng, lúc đó là Thủ tướng VNDCCH, công nhận quyền này cho Trung Quốc. Tuy nhiên, lập luận này không mang tính quyết định, mặc dù nó khá có trọng lượng. Tuyên bố đó không phải do Chủ tịch nước Việt Nam đưa ra, mà chính ông ấy mới là người được ban tặng cho những quyền lực này. Vì vậy, tài liệu thậm chí không thể được coi là một hợp đồng. Ngoài ra, rất khó để chứng minh quyền lịch sử đối với vùng lãnh thổ này do vị trí xa xôi và không có hoạt động của con người trên đó trong một thời gian dài. Tuy nhiên, tài liệu về các chuyến thám hiểm của các thủy thủ từ Việt Nam đến các hòn đảo này vẫn còn được lưu giữ. Dựa vào chúng, người ta có thể chắc chắn về những chuyến viếng thăm quần đảo hàng năm của họ với nhiều mục đích khác nhau, bắt đầu từ sự tồn tại của triều đại nhà Nguyễn. Ngược lại, Trung Quốc không có bằng chứng về việc chuyển hướng của mình. Ngoại lệ là việc sử dụng các hòn đảo của những tên cướp biển làm nơi trú ẩn. Để Trung Quốc, ngoài tuyên bố của Phạm Văn Đồng, có thêm một luận cứ, các nhà sử học phải chứng minh đây không phải là cướp biển mà là những người đi biển ôn hòa của Trung Quốc. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đang bị co thắt. Sau đó, chúng nóng lên, sau đó chúng ổn định trở lại. Ngoài ra, Trung Quốc hoàn toàn không chinhững hành động hữu nghị mà tàu Việt Nam quan tâm. Một ví dụ về trường hợp này là vụ cắt cáp của tàu hải cảnh Việt Nam thực hiện các hoạt động trinh sát trên Biển Đông. Sự việc này xảy ra vào năm 2011.